Khi sử dụng phụ gia cho vữa sẽ cải thiện các tính chất của vữa cũng như hỗn hợp vữa, cụ thể như tăng tính lưu động của hỗn hợp vữa, giảm lượng dùng nước và xi măng, điều chỉnh thời gian ninh kết và rắn chắc, nâng cao cường độ và tính chống thấm của công trình …
Bằng việc sử dụng các phụ gia khác nhau người ta có thể chế tạo các loại vữa có ứng dụng khác nhau, có cường độ đặc biệt cao, có độ đặc chặt, khả năng chống thấm và độ dẻo cao.
Theo thống kê của chuyên gia kinh tế Liên xô Babaev, hiệu quả kinh tế đạt được khi sử dụng phụ gia hoá dẻo để sản xuất các sản phẩm xây dựng giảm được 18% chi phí.
Theo Batracov chi phí cho xây dựng công trình khi sử dụng phụ gia siêu dẻo để sản xuất bê tông mac 60MPa, tổng chi phí giảm tới 42%, còn nếu sử dụng phụ gia complex thì tổng chi phí giảm tới 58%.
Theo thống kê của các chuyên gia Nhật Bản khi sử dụng phụ gia để sản xuất bê tông tự đầm (SCC) thì hiệu quả kinh tế xã hội đạt được như sau:
– Tổng chi phí cho xây dựng giảm 15¸30%.
– Giảm tiếng ồn, giảm sự ô nhiễm môi trường, giảm tai nạn lao động. Vì các lý do trên, việc nghiên cứu và sử dụng phụ gia là cần thiết. Nó thực sự là một cuộc cách mạng trong công nghệ sản xuất bê tông. Tính riêng từ năm 1977 tới nay, hàng năm có khoảng 70¸125 loại phụ gia mới ra đời.
Phụ gia được phân loại theo thành phần, theo công năng và theo các yêu cầu đặc biệt.Theo tiêu chuẩn Liên Xô (Nga) thì chia làm 3 loại phụ gia: phụ gia khoáng, phụ gia tạo bọt, phụ gia hoá học. Phụ gia hoá học được chia làm 9 nhóm.
Tiêu chuẩn ASTM C494-86 quy định 7 loại phụ gia hoá học và 4 loại phụ gia khoáng cho bê tông.
+ Loại A: Giảm nước
+ Loại B: Chậm đông kết
+ Loại C: Đóng rắn nhanh
+ Loại D: Hoá dẻo chậm đông kết
+ Loại E: Hoá dẻo đóng rắn nhanh
+ Loại F: Siêu dẻo
+ Loại G: Siêu dẻo chậm đông kết